Những người sống treo trên sóng
óng đáy hàng khơi là công việc nặng nhọc và đầy hiểm nguy. Ngư dân phải ra khơi cách bờ từ 7 - 10 hải lý, dùng hai cây gỗ chắc đóng sâu vào đáy biển và chăng lưới, chờ con nước. Những chiếc chòi trông đáy hàng khơi như những tổ chim chung chiêng trên đầu sóng.Cặm đáy hàng khơi vùng biển Cà Mau. Ảnh: Nguyễn Tiến HưngChơi vơi cùng bạn tàuNgư dân Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy hàng khơi vùng biển.

Những người sống treo trên sóng

Đóng đáy hàng khơi là công việc nặng nhọc và đầy hiểm nguy. Ngư dân phải ra khơi cách bờ từ 7 - 10 hải lý, dùng hai cây gỗ chắc đóng sâu vào đáy biển và chăng lưới, chờ con nước.

Những chiếc chòi trông đáy hàng khơi như những tổ chim chung chiêng trên đầu sóng.

Cặm đáy hàng khơi vùng biển Cà Mau. Ảnh: Nguyễn Tiến Hưng

Chơi vơi cùng bạn tàu

Ngư dân Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy hàng khơi vùng biển. Các cửa biển Cái Đôi Vàm (Phú Tân), Rạch Gốc, xã Tân Ân, Rạch Tàu, xã Đất Mũi (Ngọc Hiển),…hình thành làng đáy hàng khơi góc biển cuối trời Nam.

Ở đó, có những người làm chủ hàng chục, hàng trăm miệng đáy. Ngư phủ làm mướn cho chủ đáy hàng khơi gọi là bạn. Ngư phủ đi theo tàu ra biển đóng đáy gọi là bạn tàu. Ngư phủ làm trên biển gọi là bạn chòi.

Gia đình của bạn đáy hàng khơi quây quần xung quanh chủ đáy hàng khơi thành làng chài ven biển. Ông Hồng Văn Hoàng (Bảy Hoàng) một chủ đáy hàng khơi tầm cỡ ở Tân Ân (Ngọc Hiển) cho biết: “Không ai dám chắc đáy hàng khơi có tự bao giờ, chỉ biết là ngư dân cứ vươn ra biển đến chừng nào không thể vươn ra được nữa thì đành dừng lại. Khu vực nước biển chảy phía Biển Đông và Biển Tây gần Hòn Khoai có nhiều tôm cá nhất. Ở đây, hàng ngàn miệng đáy hàng khơi cứ giăng giăng kín cả vùng”.

Nhiều chủ đáy hàng khơi không muốn người lạ theo tàu ra vùng đáy, tuyệt đối là không cho đàn bà con gái xuống tàu. Anh Ba Kỉnh, Chủ tịch UBND thị trấn Cái Đôi Vàn (Phú Tân, Cà Mau) dặn tôi như vậy khi làm mai mối với ông chủ đáy ra khơi ở cửa biển Cái Đôi Vàm.

Ông Sáu Quảng - chủ đáy hàng khơi có máu mặt ở Cái Đôi Vàm khuyên tôi đừng theo tàu đi đóng đáy, sợ say sóng. Tôi năn nỉ chỉ cần ra hàng đáy chụp hình, hỏi thăm anh em bạn chòi ngoài hàng đáy.

Ông Sáu Quảng dặn lại: “Chú muốn thì cứ đi, sợ mệt chứ không chết chóc gì đâu. Nhưng chuyện chụp hình thì tôi chẳng biết, sóng gió dữ lắm, gió tốc mái chòi, sóng cuốn trôi lưới là chuyện thường ngày của dân vùng đáy”.

Thấy tôi cứ lì lợm năn nỉ muốn tận mắt nhìn thấy ngư dân làm nghề đáy hàng khơi, ông Sáu Quảng cho tháp tùng với tàu ra đổ đục đáy hàng khơi. Anh em ngư phủ (bạn tàu) tiếp dầu, thức ăn, nước uống, kiểm tra máy móc xong.

Tôi đu cột nhà sàn để xuống tàu, ông Sáu Quảng lắc đầu: “Ra biển, chú đeo giầy làm gì, lỡ rớt xuống biển không tháo kịp, uống nước mặn bể bụng đó nghen!”. Tôi nghe lời ông Sáu Quảng bỏ giầy, túi xách, vỏ máy vô ca - bin tàu, chỉ để chiếc máy ảnh đeo vào cổ.

Chiếc ghe nhỏ, chừng 30 tấn hướng ra cửa biển Cái Đôi Vàm. Trong tiếng máy chát chúa, mấy anh em ngư phủ nói chuyện như quát vào mặt nhau. Tàu chúng tôi vừa ra khỏi cửa biển Cái Đôi Vàm, biển bắt đầu nổi sóng, con tàu trở nên bé nhỏ, lao xuống, nổi lên.

Gần 2 tiếng đồng hồ, tàu của chúng tôi mới đến được giàn đáy hàng khơi cách bờ từ 12 đến 20 hải lý, ở giáp ranh vùng nước đục và trong. Tùy vào dòng nước chảy, mỗi giàn đáy hàng khơi thường giăng liền kề vài chục miệng đáy, miệng đáy rộng chừng 50 m.

Đáy hàng khơi có thể khai thác quanh năm, nhưng mỗi năm có hai vụ chính. Mùa nam từ tháng 3 đến tháng 6, mùa chướng từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch. Thường, tàu từ đất liền ra giàn đáy hàng khơi kéo lưới bắt tôm cá từ chạng vạng tối hôm trước đến hừng đông lại quay về bến.

Kéo lưới đổ đục bắt tôm cá. Ảnh: T.H

Đời bạn chòi

Vào chính vụ, bạn chòi phải túc trực trên giàn đáy mỗi con nước từ một tuần đến mười ngày. Thời điểm thả lưới bắt tôm cá thay đổi theo vòng xoay của nước biển, khi là nửa đêm, khi giữa trưa nắng. Bạn chòi, bạn tàu hợp đồng chặt chẽ để đưa tàu ra đáy đúng vào lúc kéo lưới (gọi là đổ đục) để bắt tôm cá chở vào bờ, đồng thời tiếp tế những vật dụng thiết yếu cho bạn chòi sống được qua con nước.

Ở vùng biển Cà Mau có hàng ngàn miệng đáy nên có rất nhiều bạn chòi trông coi đáy hàng khơi. Mùa chướng, họ vật lộn với sóng biển canh từng miệng đáy. Mùa gió Tây Nam, họ chống chọi với mùa mưa bão rình rập với vùng biển Cà Mau. Nghề khai thác biển là nghề hạ bạc thì bạn chòi phải đánh đổi sinh mạng mình cho cuộc mưu sinh...

Tàu của chúng tôi vừa cặp cột đáy đầu tiên. Anh em bạn tàu buộc dây vào cột đáy, thả neo xong, bắt đầu kéo lưới đáy. Tôi ngước nhìn lên cao, chừng 10 m, một chòi lá nho nhỏ như một tổ chim ôm lấy cây cột đáy cao, gió xô lắc lư, đu đưa theo gió, vách lá te tua... Từ chòi ló ra hai khuôn mặt đen cháy, tóc tai bù xù, quăng hai sợi dây to cỡ ngón chân cái xuống.

Tôi được anh em giúp đỡ lên chòi đáy hàng khơi bằng cách ngồi vô chiếc cần xé, cầm hai cọng dây nương theo để anh em kéo lên. Hai anh bạn chòi nắm tay tôi, kéo lên chòi. Dây xiết vào tay đau điếng. Thảo nào, bàn tay anh em đều chai cứng, sần vuông như sừng vì suốt ngày đêm kéo lưới.

Căn chòi nhỏ hẹp chỉ đủ 2 bạn chòi ngồi. Tôi ngoái nhìn xuống mặt biển xanh ngắt, choáng váng mặt mày. Hú hồn hú vía, nếu lỡ thủng chiếc cần xé hoặc đứt dây chắc trôi theo nước biển!

Vào con nước, ngư phủ làm việc trên chòi phải ở ròng rã ngoài khơi cả tuần đến 10 ngày mới được vô bờ thăm vợ con. Sum họp gia đình vài ngày giữa hai con nước, rồi lại quay ra chòi để làm bạn với biển khơi.

Anh Thạch Sơl và Trần Văn Mẫn sống trong căn chòi gồm một bếp lò nấu củi, hai can nước ngọt, bao gạo, thùng mì, chén bát đựng trong rổ nhựa, hai cái võng mắc cặp vách. Quần áo thì mỗi người một bộ để mặc khi vào bờ, còn thì họ chỉ mặc độc chiếc quần đùi.

Lạ mắt là tất cả mọi vật dụng đều có một sợi dây cột vào đâu đó, gió lắc lư có rơi cũng còn dính lại. Bật lửa được giữ kỹ nhất, gắn vào khối ximăng, có cái khoen để cột dây. Vật bắt buộc bất ly thân là chiếc áo phao thì chẳng thấy anh nào mặc, kể cả khi di chuyển chơi vơi trên đòn gượng nối hai trụ đáy.

Anh Trần Văn Mẫn có thâm niên 11 năm làm nghề bạn chòi nói: “Áo phao vướng víu, khó khăn đi lại. Nếu lỡ rơi xuống biển thì người ở trên thảy phao, quăng dây. Nếu không thì anh em tụi tui dư sức bơi vô giàn đáy gần đây!”.

Bạn chòi sử dụng chung mọi thứ nhưng chỉ có một vật dụng mà ai cũng giữ riêng đó là con dao nhỏ, lưỡi xếp, sắc bén vắt lưng quần. Tôi hỏi anh Thạch Sơl giữ khư khư con dao bên người để làm gì? Anh cười rất tươi, hàm răng nhuốm màu khói thuốc: “Anh em ở trên chòi, không may rơi xuống biển, nước đạp trôi vào đục đáy (lưới đáy) rạch rách lưới để thoát thân!”.

Lòng bàn chân của hai anh bạn chòi chai cứng vì đi suốt trên dây đáy giăng ngang giữa 2 cây cột đáy. Nhìn thấy anh em đi lại trên giàn đáy hàng khơi, tự cân bằng, không cần bất cứ thứ gì như nghệ sĩ làm xiếc trên dây.

Anh Thạch Sơl cho biết: “Mùa gió chướng là mùa thu nhập chính của bạn chòi chúng tôi. Con nước nào trúng thì được 1 - 2 triệu đồng, ít thì trên dưới 500.000 đồng. Nhưng cũng lắm khi kéo đáy lên chẳng có gì trong đáy, buồn chết được. Có những lúc vợ đau con ốm, không được vào bờ tôi phải liên hệ với chủ hàng đáy qua máy bộ đàm, vay tiền thuốc thang chờ khi mùa chướng về làm trừ nợ ”.

So với những người làm công đáy hàng khơi thì bạn chòi được trả công theo sản phẩm có cả sự ưu ái đặc biệt. Người bạn chòi có quyền chọn và hưởng toàn bộ sản phẩm thu được một trong năm miệng đáy mà người chủ của họ đã đầu tư.

Bạn chòi là những trai tráng tứ xứ “trôi dạt” về đây sớm dấn thân với nghề biển. Bạn chòi phải chút máu gan dạ, chịu đựng cực khổ, cần cù, chịu khó và chút mạo hiểm.

Anh Nguyễn Văn Lùn, 31 tuổi, làm bạn chòi từ thuở lên 15 kể lại: “Ở chòi tưởng rảnh chớ làm suốt ngày đêm. Sáng sớm lo nấu bữa cơm trần ai vì gió tắt bếp. Ngả lưng chút xíu lại chuẩn bị đóng đáy. Suốt đêm gần như thức trắng để “phạch dạo” cho tàu đến đổ đục. Tàu quay về đất liền mình phải giặt đáy, phơi khô. Hết miệng đáy này sang miệng đáy khác”.

Đành rằng ở mỗi cuộc đời ai cũng tìm một việc để sống. Nhưng người bạn chòi đáy hàng khơi cơ cực, hiểm nguy. Những đêm dài ngày rộng liệu biển có hiền hòa hay giận hờn. Giữa biển cả bao la người bạn chòi trở nên nhỏ nhoi, đơn lẻ. Người bạn chòi được trang bị phao cứu sinh, radio để phòng lúc bất trắc khi biển động mà tàu trong đất liền ra chưa kịp.

Làng chài chờ chồng

Anh Ba Kỉnh, Chủ tịch UBND thị trấn Cái Đôi Vàm (Phú Tân) cho biết: “Thị trấn Cái Đôi Vàm có tới 60 hộ làm nghề đáy hàng khơi, mỗi hộ thuê 10 - 30 bạn. Chỉ những chủ hàng đáy là có thu nhập ổn định, nhiều ông chủ giàu sụ nhờ nghề này. Đại đa số những người làm thuê đều có cuộc sống kham khổ. Đã vậy, nhiều người phải bỏ mạng oan uổng ngoài biển vì nghề này. Sau cơn bão Linda 1997, bạn chòi chết nhiều, bạn chòi giỏi còn rất ít.

Sau một ngày vật lộn với sóng biển kéo đáy, chiếc ghe chở tôi cùng gần 20 bạn chòi trở về, cập bến. Ở bến đã có hàng chục phụ nữ cùng mấy đứa nhỏ tay thúng, tay rổ đứng chờ sẵn từ lúc nào. Hỏi ra mới biết họ là vợ con của những bạn chòi đến nhận phần chia của chồng mình.

Chị Diệp - vợ anh Thạch Văn Thống, vừa thấy chồng bước xuống đã cùng con vui mừng vây lấy mà không màng tới phần cá tôm được chia. Vợ anh Hai Chiểu nói: “Ngày nào chị em tụi tui cũng ngóng ra biển. Ngày qua ngày cứ khắc khoải chờ như thế. Các ổng về mừng đó, các ổng đi lại phấp phỏng lo”.

Lẫn trong số những phụ nữ ấy, có nhiều người không phải đến chia phần mà đến để nhặt cá thuê hay mua lại ra chợ bán kiếm tiền. Nhìn mặt họ phảng phất nét buồn tủi, nhiều người quay mặt giấu những giọt nước mắt lặng lẽ khi chứng kiến cảnh vợ con người khác vui mừng đón chồng.

Nghề đáy hàng khơi là vậy, lắm lúc biển bao dung mang lại cơm no áo ấm cho họ, nhưng đôi khi biển cũng nhẫn tâm cướp đi của lương dân tất cả. Theo TPO