Ẩn mình giữa những triền núi đá xám, khu Mỹ Á (xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn) hiện lên như một nốt trầm sâu lắng giữa bản giao hưởng của đại ngàn hùng vĩ. Không chỉ hấp dẫn bởi vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng, nơi đây còn là kho tàng văn hóa sống động với những di sản truyền thống được người Mông gìn giữ qua bao thế hệ. Đặc biệt là tiếng khèn - âm thanh truyền thống như nhịp đập văn hóa được gìn giữ qua bao thế hệ người Mông nơi đây.
Ẩn mình giữa những triền núi đá xám, khu Mỹ Á (xã Thu Cúc, huyện Tân Sơn) hiện lên như một nốt trầm sâu lắng giữa bản giao hưởng của đại ngàn hùng vĩ. Không chỉ hấp dẫn bởi vẻ đẹp hoang sơ của núi rừng, nơi đây còn là kho tàng văn hóa sống động với những di sản truyền thống được người Mông gìn giữ qua bao thế hệ. Đặc biệt là tiếng khèn - âm thanh truyền thống như nhịp đập văn hóa được gìn giữ qua bao thế hệ người Mông nơi đây.
Khi màn sương sớm còn lững thững trườn qua đỉnh núi Củm Cò, giữa không gian tĩnh lặng của núi rừng, một âm thanh trầm bổng bất chợt ngân lên, khi tha thiết, lúc rạo rực vang vọng giữa không gian tĩnh lặng như gọi cả núi rừng cùng cất tiếng - tiếng khèn Mông như đánh thức cả núi rừng.
Trong câu chuyện với tôi, ông Sùng A Câu - một trong số ít những người biết thổi khèn, múa khèn ở Mỹ Á chia sẻ: Với người Mông nơi đây, khèn không chỉ là một nhạc cụ truyền thống mà còn là thanh âm của cội nguồn, là sợi dây nối kết giữa con người với trời đất, giữa hôm nay với những gì sâu thẳm đã thuộc về quá khứ. Trải qua bao biến thiên của thời gian, tiếng khèn vẫn hiện hữu, âm thầm nhưng bền bỉ, như mạch ngầm văn hóa chảy suốt trong đời sống người Mông vùng đất này.
Trong tiếng Mông, khèn được gọi là “chúa kềnh”. Chiếc khèn Mông nhìn bề ngoài tưởng chừng mộc mạc - nhưng lại có cấu tạo hết sức tinh vi. Khèn thường được làm từ gỗ họ nhà thông như thông đá, kim giao hay pơ mu già được phơi khô. Khèn gồm 6 ống trúc nằm ngang nối với 1 ống trúc dọc qua bầu gỗ nhỏ. Mỗi ống trúc ngang đều có khoét lỗ và gắn một lá đồng để tạo âm thanh, riêng ống to và ngắn nhất có gắn hai lá đồng tạo nên một dải âm vực phong phú, cho phép người nghệ nhân thể hiện đủ mọi sắc thái cảm xúc: Từ vui tươi, rạo rực cho đến sâu lắng, tiếc thương... Âm thanh khèn thoát ra là kết quả của sự điều phối tinh tế giữa hơi thở, đôi tay và cả trái tim người thổi.
Trong căn nhà gỗ cũ nằm sát lưng chừng núi, ông Sùng A Câu nâng cây khèn lên môi, đôi mắt lim dim như đang nhìn vào một miền ký ức xa xăm. Ở tuổi 60, mái tóc đã điểm bạc theo thời gian, nhưng tiếng khèn của ông thì vẫn vẹn nguyên như ngày đầu tiên học thổi vào năm 15 tuổi, lặng lẽ ngồi bên cha, nghe từng luồng hơi ngân vang qua rừng cây, đá núi. “Tiếng khèn Mông mềm như khói, sâu như đất và lặng như gió rừng lướt qua tán lá. Người thổi không chỉ điều khiển nhạc cụ, mà còn phải lắng nghe chính hơi thở của mình, gửi vào đó niềm thương, nỗi nhớ, những điều chỉ có núi rừng hiểu được”, ông Câu giãi bày.
Chiếc khèn được ông Câu nâng niu được đặt trong một chiếc bao vải thổ cẩm đã bạc màu. Tiếng khèn là nhịp sống, là hơi thở gắn bó máu thịt với mỗi chặng đường đời của người Mông. Không cần hoa hay những câu tỏ tình lãng mạn, chàng trai Mông tìm đến người con gái mình thương bằng tiếng khèn đeo bên ngực áo chàm. Mỗi giai điệu là một thông điệp kín đáo: Tiếng khèn dịu nhẹ là lời mời gọi, trầm sâu là nỗi nhớ, còn những khúc ngân vang là mong ước được sánh đôi.
Khèn được thổi trong những ngày vui cũng như những thời khắc tiễn biệt. Từ lễ cưới, hội Xuân, lễ mừng nhà mới đến tang lễ hay những buổi tiễn đưa người đã khuất về với tổ tiên. Mỗi dịp, mỗi hoàn cảnh, khèn lại mang một giai điệu, một tâm thế khác nhau. Trong lễ cưới, khèn là tiếng reo vui, là lời ngỏ ý chàng trai gửi đến cô gái mình yêu thương và gắn bó suốt đời. Giữa phiên chợ Xuân hay ngày lễ, ngày hội của bản, tiếng khèn ngân vang hòa vào từng điệu múa như một bản tình ca rộn ràng của núi rừng. Nhưng trong tang lễ, tiếng khèn trở nên trầm mặc, lặng lẽ, như lời từ biệt cuối cùng, như tiếng lòng tiễn người quá cố về bên kia núi...
Rồi ông thổi thử một đoạn. Tiếng khèn cất lên chậm rãi, run run như sương sớm trôi qua bờ vai núi. Giai điệu khi da diết, lúc ngân vang, trầm lắng như một lời gọi xa xăm vọng về từ quá khứ.
Hơn 40 năm gắn bó với chiếc khèn, ông Sùng A Tủa (sinh năm 1963) không chỉ thổi hay, múa giỏi, mà còn sống cùng khèn như sống với niềm tự hào, kiêu hãnh về truyền thống của người Mông. Năm mười chín đôi mươi, chính tiếng khèn ngân dài của ông trong hội Xuân đã khiến cô gái đẹp nhất bản phải ngoái đầu nhìn lại và rồi nên duyên. “Chiếc khèn là linh hồn của người Mông”, ông nói, ánh mắt lấp lánh niềm tự hào.
Ông Tủa cho biết, cùng với tiếng khèn da diết, điệu múa khèn của người Mông là sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và chuyển động, giữa khí chất mạnh mẽ và vẻ mềm mại, linh hoạt của cơ thể. Người múa khèn không đơn thuần chỉ thổi, mà còn biểu diễn bằng cả thân mình, qua những động tác lượn vòng, xoay tròn, cúi gập, nhún chân, nghiêng vai... đầy tính biểu cảm. Khèn được kẹp ngang hông, lúc thì đưa lên cao như vút theo gió núi, lúc lại hạ thấp, gần chạm mặt đất, tạo nên một điệu múa đầy ngẫu hứng mà vẫn có nhịp điệu, tiết tấu riêng biệt.
Mỗi bước múa khèn là một câu chuyện trong mỗi dịp lễ, hội hay các sự kiện cưới, tang của bản. Múa khèn Mông không cầu kỳ về hình thức, nhưng lại đòi hỏi người múa phải dẻo dai, có sức bền và đặc biệt là cảm được “hồn” của khèn để thổi và múa như một.
Ông Tủa đã từng là “thầy giáo” đứng lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ cách thổi và múa khèn trong Câu lạc bộ múa khèn của khu. Từ cách cầm khèn, giữ hơi, đến từng bước xoay người, lắc vai, nhún chân... Ông chỉ dẫn tỉ mỉ như thể đang gửi gắm vào đó cả tâm huyết và máu thịt của mình. Với ông, bảo tồn tiếng khèn không chỉ là gìn giữ một phần di sản, mà là viết tiếp mạch sống văn hóa của người Mông giữa đại ngàn.
Hà Trang
1:23:06:2025:07:46 GMT+7