Từ trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đến nay, trong tâm thức của nhân dân, nhiều tác phẩm văn học viết về bộ đội là rất hữu ích. Có thể nêu một số ví dụ như: “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi; “Đồng chí” của Chính Hữu; “Núi Đôi” của Vũ Cao; “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm; “Mẫn và tôi” của Phan Tứ; “Dấu chân người lính”, “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu; “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi; “Việt Nam trên đường chúng ta đi” của Xuân Sách; “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi” của Nam Hà; các bài thơ về Trường Sơn của Phạm Tiến Duật...; rồi kịch, nhạc, họa... ở lĩnh vực nào cũng có tác phẩm sống mãi với thời gian. Đó là sự bồi đắp, làm giàu tâm hồn người lính trong chiến tranh, gieo vào họ tình yêu quê hương, đất nước, tính nhân văn, lòng quả cảm; tạo được lòng tin yêu trong nhân dân đối với người chiến sĩ.
Chính sự giàu có, phong phú, nhân văn của tâm hồn người lính đã là tiền đề làm nên sức mạnh tinh thần để bộ đội ta cùng với nhân dân vượt qua muôn vàn khó khăn thử thách, chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược hùng mạnh, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và tiếp đó người chiến sĩ luôn là lá chắn thép trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Một trong những thành tố cơ bản để các tác phẩm văn học nghệ thuật viết về người lính thành công và đi sâu vào tâm trí bạn đọc các thế hệ đã có đóng góp quan trọng của lý luận phê bình văn học, nghệ thuật trong việc định hướng, làm rõ, dẫn dắt và định vị những giá trị cốt lõi nhất, nhân văn nhất, có chiều sâu tư tưởng nhất của mỗi tác phẩm văn học, nghệ thuật trong đó có các tác phẩm viết về người chiến sĩ. Đây cũng là những đóng góp lớn của lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất.
Đội ngũ văn nghệ sĩ quân đội luôn đóng một vai trò đặc biệt đối với đời sống tinh thần của người chiến sĩ, là cầu nối giữa người chiến sĩ với quê hương, đất nước và nhân dân.
Đội ngũ văn nghệ sĩ, thông qua tác phẩm làm cho chúng ta hiểu rằng, văn hóa, văn học nghệ thuật thực sự là sức mạnh to lớn của dân tộc ta, nhân dân ta và quân đội ta. Thực tiễn sinh động cũng như lời dạy của Bác: “Văn hóa là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận đó” là khái quát nhất về vai trò của văn hóa, văn học nghệ thuật. Các nhà lãnh đạo coi văn hóa, văn học nghệ thuật không phải là thứ để chiêm nghiệm cá nhân, nghiên cứu, để giải trí, mà là sức mạnh tâm hồn của mỗi người, từ đó kết tinh thành sức mạnh của cả dân tộc Việt Nam. Trong đó, đội ngũ văn nghệ sĩ quân đội luôn đóng một vai trò đặc biệt đối với đời sống tinh thần của người chiến sĩ, là cầu nối giữa người chiến sĩ với quê hương, đất nước và nhân dân.
Từ bầu trời với những khung hình như thế, liệu có thể mở ra những ô cửa sáng tạo để phục vụ nhân dân và Tổ quốc hay không? Đó là câu hỏi mà các thế hệ văn nghệ sĩ trong đó có đội hình văn nghệ sĩ quân đội phải trả lời bằng những tác phẩm hữu ích nhất. Thật đáng tự hào, trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong thời bình hôm nay, câu trả lời luôn là những ô cửa tác phẩm mở rộng tới các chân trời mà người chiến sĩ và nhân dân đón đợi.
Bằng tác phẩm xuất sắc của mình, các nhà văn quân đội đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật như: Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Hồ Phương, Hữu Thỉnh, Xuân Thiều và hàng chục nhà văn khác được Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hội Nhà văn, Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng và các Giải văn học quốc tế (Bông Sen, Asean, Sông Mê Công).
Những tên tuổi như: Thanh Tịnh, Vũ Cao, Xuân Thiều, Phùng Quán, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyễn Chí Trung, Dũng Hà, Mai Ngữ, Nhị Ca, Thu Bồn, Triệu Bôn, Lê Lựu, Hữu Thỉnh, Nguyễn Thị Như Trang, Vương Trọng, Anh Ngọc, Nguyễn Đức Mậu, Hồng Diệu, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khắc Trường, Khuất Quang Thụy, Ngô Thảo, Vương Trí Nhàn, Thanh Quế, Trung Trung Đỉnh... Đội ngũ các nhà văn, đặc biệt là lớp nhà văn trẻ xuất hiện và được khẳng định. Nhiều tác phẩm gây tiếng vang và là những thương phẩm văn học đặc thù, truyền thống. Những thanh âm trong trẻo, hữu ích đến với bộ đội, đến với nhân dân.
Các nhà văn quân đội không chỉ có mặt trên mỗi trang viết mà còn có mặt nơi bão lốc, cháy rừng, lũ quét. Các nhà văn quân đội đều nhiều lần đến Trường Sa. Có người đi hằng tháng như Duy Khán. Có người ở nhiều năm như Trần Đăng Khoa, Nguyễn Xuân Thủy. Mùa sóng gió, mùa biển lặng, các nhà văn đều đến nơi biên giới, hải đảo với tấm lòng của nhà văn - chiến sĩ. Hằng năm, các nhà văn quân đội đến Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ ăn cùng, ở cùng và lắng nghe nhịp đập của trái tim người chiến sĩ. Những tập ghi chép, bút ký, truyện ngắn mang đậm hơi thở người lính là món ăn tinh thần bổ ích của bộ đội ta. Và cũng chính người chiến sĩ đang ngày đêm miệt mài với từng nhiệm vụ được giao nơi biên giới hải đảo đã tiếp thêm sức mạnh, là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn trong và ngoài quân đội.
Để có được điều đó, đều có sự đóng góp quan trọng của lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật.
Chúng ta đã từng có truyền thống về sự sáng tạo, độc đáo về vấn đề tư duy bảo vệ Tổ quốc trong tiến trình lịch sử đã đi vào văn học. Như các võ công thời Hùng Vương, Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, Ngô Vương Quyền, tiếp đến các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và đặc biệt là thời đại Hồ Chí Minh thì vấn đề bảo vệ Tổ quốc luôn được đặt ra rất sâu sắc. Tiếp nối truyền thống đó, đội ngũ người chiến sĩ trong đó có người chiến sĩ làm công tác văn học nghệ thuật đã bằng vào các tác phẩm của mình đóng góp thiết thực cho nhiệm vụ trên.
Đảng ta đã chỉ rõ: Trong thời đại hiện nay, chúng ta phải bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Mục tiêu cao nhất là đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hòa bình, và sẵn sàng đánh thắng khi đất nước bị xâm lược. Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc; Bảo vệ độc lập tự chủ; Bảo vệ nền hòa bình bền vững của đất nước; Bảo vệ ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân; Tích cực tham gia bảo vệ hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đó là những nhiệm vụ rất toàn diện, và cũng hết sức nặng nề.
Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại phát huy cao độ rất nhiều giá trị cốt lõi nhân văn. Một trong những biểu hiện đặc sắc là hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Cả thế giới dường như chưa có được hình ảnh nào sâu sắc và gần gũi, nhân văn như thế. Vậy tư duy xây dựng con người mới về hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới hiện nay phải như thế nào? Người chiến sĩ hôm nay, “Bộ đội Cụ Hồ” hôm nay phải luôn xác định sâu sắc rằng người trước, súng sau. Đó là nhân tố quyết định mọi vấn đề. Bản chất của con người mới “Bộ đội Cụ Hồ” chính là con người mang văn hóa Việt Nam, văn hóa thời đại Hồ Chí Minh.
Chúng ta phải vừa khơi gợi vừa tin tưởng vào mỗi người chiến sĩ đã và đang làm tốt mọi nhiệm vụ để có được hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”. Người Việt Nam rất nhân văn. Người chiến sĩ càng giản dị sáng trong và rất kiên cường. Từ thực tiễn ấy, từ bầu trời và ô cửa ấy, các tác phẩm văn học nghệ thuật cần khai thác và biểu hiện thiết thực để góp phần tạo dựng hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”. Dẫu còn phải phấn đấu nhiều, phấn đấu liên tục, nhưng tôi cũng tin tưởng nhất định, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” sẽ mãi là niềm cảm hứng để đội ngũ văn nghệ sĩ trong và ngoài quân đội có những tác phẩm xứng với kỳ vọng của nhân dân.
Hiện nay, chúng ta đang phải ứng xử với một thế trận trong văn hóa văn nghệ rất khó khăn. Khi mà thông tin số phát triển, mạng xã hội lan tỏa với tốc độ chóng mặt, khó theo kịp. Khi mà cỗ xe văn hóa văn nghệ có đặc điểm là lắng đọng, trầm tĩnh, từ từ lại phải chạy đua với cỗ xe thông tin mạng với vận tốc lớn. Cỗ xe văn hóa nghệ thuật sẽ phải chạy như thế nào? Đây là vấn đề lớn cần xem xét kỹ lưỡng. Nhưng, quan trọng nhất, dù nhanh hay chậm, rộng hay hẹp, nếu tác phẩm hay, cả về nội dung và hình thức, dù là một bài thơ, một cuốn tiểu thuyết, bản nhạc, bức tranh... thì sẽ được bạn đọc đón nhận, hưởng ứng.
Chính ở đây, vai trò của phê bình văn học nghệ thuật là rất quan trọng. Nó phải thể hiện được những điều chính yếu như hội thảo “Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất: Thực trạng, định hướng và giải pháp phát triển” đã đặt ra. Đó chính là:
- Đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong tiến trình xây dựng, phát triển lý luận, phê bình văn nghệ nước ta 50 năm sau ngày đất nước thống nhất;
- Quá trình giao lưu, tiếp biến lý luận văn nghệ nước ngoài và những vấn đề đặt ra trong quá trình giao lưu, tiếp nhận đã và cần được giải quyết;
- Quá trình kế thừa và cách tân lý luận văn nghệ của dân tộc trong tiến trình xây dựng lý luận văn nghệ Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất;
- Thành tựu và hạn chế của lý luận, phê bình văn nghệ Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước thống nhất (thực trạng chung, thực trạng của từng loại hình nghệ thuật, của từng lĩnh vực và khu vực);
- Đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể trong việc xây dựng, phát triển lý luận, phê bình văn nghệ trong thời kỳ tới, góp phần xây dựng nền văn nghệ mới tiên tiến, giàu tính dân tộc, dân chủ, nhân văn.
Với chủ đề bao trùm như vậy, chắc chắn, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhà lý luận phê bình và giới sáng tác văn học nghệ thuật sẽ có những chuyên đề, tham luận sâu sắc, đề cập đến mọi khía cạnh và làm rõ những thành tựu cũng như có tham mưu về định hướng và giải pháp phát triển. Đây chắc chắn là một dấu mốc mới của chuyên ngành lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất. Đây cũng là mong mỏi lớn của nhân dân trong đó có mỗi người chiến sĩ đang ngày đêm vượt mọi khó khăn gian khổ hoàn thành mọi nhiệm vụ góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đã là người dân nước Việt, ai cũng mong muốn hòa bình để phát triển. Bây giờ là mơ ước để mình trở thành một nước giàu, nước mạnh, do vậy rất cần đến xây dựng nền văn hóa, nghệ thuật phát triển trong sáng, lành mạnh để góp phần xây dựng tiềm lực văn hóa tinh thần của đất nước. Nhớ lại trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, đội ngũ văn nghệ sĩ quân đội đã rực sáng với những tên tuổi lớn trong văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, phim ảnh... Chính từ đó, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” đã tỏa sáng và mãi lấp lánh trong tâm thức nhân dân. Bộ đội ta đẹp lắm chứ, nhân văn lắm, nhiều hành động trong thời bình cũng rất anh hùng là mảnh đất màu mỡ để các văn nghệ sĩ khắc họa và sáng tạo. Hãy tìm những gì thật bình dị để đồng hành, sẻ chia. Người chiến sĩ và nhân dân đang chờ các tác phẩm của chúng ta. Làm tốt điều đó chính là để góp phần khẳng định: Văn hóa nghệ thuật đóng góp đặc biệt quan trọng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Văn học nghệ thuật luôn mang trong mình sức mạnh tinh thần to lớn. Đó cũng là nội lực để phát triển. Đối với đội ngũ văn nghệ sĩ trong quân đội, trọng trách và niềm tin để tiếp tục trau dồi và có được nền tảng tri thức sâu sắc trong sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học nghệ thuật góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho chiến sĩ và nhân dân.
Làm thế nào để các tác phẩm văn học nghệ thuật của đội ngũ văn nghệ sĩ trong quân đội có đóng góp nhiều hơn cho xã hội, cho quân đội? Quan trọng nhất là phải đi được vào quần chúng nhân dân, đi được vào đời sống bộ đội. Các tác phẩm có đến được với đông đảo công chúng mọi tầng lớp hay không, có được nhìn nhận tích cực hay không chính là thước đo đối với mỗi văn nghệ sĩ. Nhân dân rất công tâm. Những tác phẩm hay sẽ còn mãi đọng lại, soi rọi và khơi gợi sự nhân văn của con người trong đó có người chiến sĩ.
Trong giai đoạn mới ngày nay, văn hóa, văn học nghệ thuật trong quân đội phải là lực lượng chủ công trong xây dựng và bảo vệ trận địa tư tưởng vững chắc, tươi mới, hiện đại, phù hợp với xã hội hiện đại. Chỉ cần chạm vào trái tim nhân dân và chiến sĩ, lập tức văn học nghệ thuật sẽ có sức lan tỏa lớn gấp nhiều lần những loại hình khác. Hiện nay, vẫn còn thói quen chúng ta hay làm những gì mình thích mà chưa hướng đến cái mà xã hội thích, nhân dân và bộ đội thích, để được đông đảo công chúng đồng thuận và tiếp nhận mới là đích đến cao nhất.
Văn hóa, văn học nghệ thuật của quân đội trước hết phải là văn hóa cách mạng,đó chính là cái mới, cái tiến bộ, là ánh sáng, phải tiếp tục góp phần làm giàu tâm hồn người chiến sĩ. Chúng ta phải xây dựng những vùng sáng trong cuộc sống ngày hôm nay, đẩy lùi bóng tối, để hướng tới chân lý bền vững. Chắc chắn đội ngũ văn nghệ sĩ quân đội sẽ luôn là lá cờ đầu trong xây dựng nền văn hóa, văn học nghệ thuật cách mạng như các thế hệ trước đã từng thực hiện. Đó cũng là trách nhiệm và nghĩa vụ của đội ngũ văn nghệ sĩ trong quân đội.
Từ thực tiễn các sáng tác văn học nghệ thuật đã góp phần làm giàu tâm hồn người lính trong các cuộc chiến tranh vệ quốc và nhất là sau dấu mốc thống nhất đất nước 1975; đến hôm nay, những thành tựu chính yếu nhất, đóng góp lớn để làm nên danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” có phần quan trọng của lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Việt Nam 50 năm sau ngày đất nước hòa bình, thống nhất. Những thành tựu mà nó đem lại đều bắt nguồn từ nền tảng đúng đắn của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực tiễn phát triển văn học, nghệ thuật và sự trưởng thành của mỗi cá nhân trong đội ngũ làm công tác phê bình văn học nghệ thuật của chúng ta. Chỉ riêng với những thành tựu của lý luận, phê bình văn học nghệ thuật góp phần làm giàu tâm hồn người lính đã cho thấy sự trưởng thành liên tục, quá trình kế thừa và cách tân, đổi mới đáng ghi nhận đồng thời cũng mở ra những bước phát triển cao hơn, phong phú hơn của lý luận, phê bình văn học nghệ thuật trong thời gian tiếp theo.
Theo Arttimes