{title}
{publish}
{head}
Sáng 19/11, tiếp tục chương trình làm việc tại Kỳ họp thứ 10, các đại biểu đã thảo luận tại Tổ 15 (gồm Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ, Đắk Lắk) về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai; Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế; Về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình.

Toàn cảnh Phiên thảo luận
Cơ chế tính “75% - 25%” thiếu rõ ràng, nguy cơ tạo “vùng lõi” cản trở dự án
Thảo luận về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội quy định một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai, đa số các đại biểu đồng tình với sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết. Thực tế, trong thời gian qua, sau khi thực hiện Luật Đất đai (sửa đổi) đã có nhiều bất cập liên quan đến việc triển khai thực hiện. Trong đó việc thực hiện các dự án liên quan đến thỏa thuận thực hiện bồi thường, hỗ trợ tái định cư; liên quan đến giá đất và nhiều nội dung khác gây khó khăn trong việc tổ chức triển khai thực hiện.

Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Nguyễn Văn Mạnh phát biểu thảo luận tại Tổ
Theo Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh, Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh tại điểm b, khoản 2, Điều 3 quy định trường hợp sử dụng đất để thực hiện các dự án thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất đã hết thời hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận hoặc hết thời hạn gia hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận mà đã thỏa thuận được trên 75% diện tích đất và trên 75% số lượng người sử dụng đất thì HĐND cấp tỉnh xem xét, thông qua việc thu hồi phần diện tích đất còn lại để giao đất, cho thuê đất cho chủ đầu tư, phần còn lại 25% sẽ do Nhà nước thu hồi.
Đại biểu cho rằng, quy định này còn một số vướng mắc cần làm rõ. Cụ thể, mặc dù diện tích đất đã rõ nhưng cơ chế tính số lượng người sử dụng đất chưa rõ ràng, nên tính theo số hộ hay theo số cá nhân có liên quan đến diện tích đất? Nếu không quy định cụ thể, sẽ khó triển khai thực hiện.
Giá đất, bồi thường và cơ chế chuyển tiếp tiếp tục là những “nút thắt” lớn trong thi hành Luật Đất đai

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Nguyễn Thị Phú Hà phát biểu thảo luận tại Tổ
Nhấn mạnh những vướng mắc kéo dài trong thực tiễn triển khai, các đại biểu cho rằng hàng loạt vấn đề liên quan đến giá đất, cơ chế bồi thường, hỗ trợ tái định cư và quy định chuyển tiếp vẫn đang là rào cản lớn đối với tiến độ nhiều dự án. Bên cạnh đó, đại biểu cũng đề nghị, vấn đề chuyển tiếp cần được xem xét kỹ lưỡng. Hiện nay, nhiều dự án đã triển khai hàng chục năm nhưng chỉ còn vướng một vài hộ dân, vì vậy cần làm rõ các dự án này có được áp dụng theo cơ chế của nghị quyết hay không. Ngoài ra, trong dự thảo cần quy định rõ giá đề bù khi Nhà nước thu hồi phần diện tích 25% còn lại theo giá đất do Nhà nước xác định hay theo giá mà nhà đầu tư đang áp dụng? Nếu không quy định rõ, sẽ dẫn đến xung đột và khó khăn trong quá trình thực hiện dự án.
Băn khoăn về cơ sở để cơ quan soạn thảo đưa ra quy định liên quan đến việc sử dụng đất thực hiện dự án thông qua thỏa thuận, Đại biểu Nguyễn Thị Phú Hà, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội (Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ) cũng đề nghị, cơ quan soạn thảo cần làm rõ cơ sở và cách thức xác định các tỷ lệ này để đảm bảo tính minh bạch, khả thi trong triển khai.
Không thể chuyển từ quan hệ dân sự sang hành chính khi thỏa thuận thất bại

Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Đặng Bích Ngọc phát biểu thảo luận tại Tổ
Tại phiên thảo luận, nhiều đại biểu bày tỏ quan ngại về việc dự thảo bổ sung thêm một số trường hợp Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt liên quan tới các dự án mang mục đích quốc phòng, an ninh; xây dựng cơ sở cai nghiện do lực lượng vũ trang quản lý; và các dự án phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Đại biểu Đặng Bích Ngọc, Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh cho rằng, dự thảo bổ sung một số dự án Nhà nước thu hồi đất, trong đó khoản 1 quy định thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, xây dựng cơ sở cai nghiện do lực lượng vũ trang quản lý; khoản 2 quy định thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng và liệt kê một số trường hợp cụ thể.
Tuy nhiên, đại biểu lo ngại, nếu chỉ đưa ra các dự án cụ thể, khi vướng mắc phát sinh sẽ rất khó triển khai. Cần xác định rõ rằng Nhà nước sẽ thực hiện thu hồi, bồi thường, giải phóng mặt bằng đối với các dự án phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh trong một tổng thể; thay vì liệt kê rời rạc từng trường hợp, vì như vậy rất khó khả thi.
Về cơ chế 75% áp dụng cho các dự án thỏa thuận, đại biểu phân tích, việc xác định thế nào là 75% diện tích và 75% số lượng người sử dụng đất chưa rõ ràng; trong khi nhiều dự án mới chỉ đạt 50 - 70% nhưng đã bảo đảm các điều kiện khác vẫn chưa thể thỏa thuận với người dân. Thực tế, một số hộ dân có thể cố tình không đồng ý, khiến dự án có thể kéo dài 5 - 10 năm, thậm chí không thể giải phóng mặt bằng. Đại biểu nhấn mạnh, con số 75% - 25% hiện nay chưa thuyết phục, có thể khiến phần diện tích chưa thỏa thuận trở thành “vùng lõi” của dự án, cản trở triển khai toàn bộ dự án.
Kiến nghị hoàn thiện cơ chế giá đất, hỗ trợ đời sống để tránh bất công và ngăn trục lợi

ĐB Lê Tất Hiếu phát biểu thảo luận tại Tổ
Đại biểu cũng lưu ý, việc thực hiện các dự án liên quan đến thu hồi đất phụ thuộc vào giá đất, trong khi Hội đồng thẩm định giá đất gặp khó khăn trong xác định giá sát với thị trường. Nếu giá bồi thường không phù hợp, dự án không chỉ gặp vướng mắc mà còn có nguy cơ vi phạm pháp luật. Do đó, việc xác định nhà nước đứng ra để bồi thường hay doanh nghiệp đứng ra thỏa thuận cần xác định rõ ràng, cụ thể để tạo cơ chế thông thoáng, thuận lợi cho các địa phương triển khai thực hiện. Nếu không, các dự án trong thời gian tới rất có thể vẫn tiếp tục bị ách tắc.
Đại biểu Lê Tất Hiếu (Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ) phân tích, các dự án mà Nhà nước quyết định thu hồi phải được xác định ngay từ đầu và thực hiện theo quan hệ pháp luật hành chính, tức mang tính mệnh lệnh, có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế. Ngược lại, các dự án triển khai theo cơ chế thỏa thuận là quan hệ dân sự, dựa trên sự tự nguyện của các bên. Do đó, theo đại biểu, “không thể từ quan hệ dân sự, khi không đạt được thỏa thuận lại chuyển sang quan hệ hành chính, bởi điều này sẽ dẫn đến lẫn lộn và phá vỡ nguyên tắc xây dựng pháp luật.”
Đại biểu nhấn mạnh, mọi dự án đều nhằm phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc, nhưng nếu lựa chọn cơ chế thỏa thuận thì phải bảo đảm thực hiện triệt để, để bảo vệ quyền lợi của người dân. Việc đưa quy định 75% vào dự thảo, theo đại biểu, là không phù hợp với tinh thần Hiến pháp và nguyên tắc cứng của Luật Đất đai.
Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh cũng cho rằng việc xác định giá đất là một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay. Quy định về giá đất cụ thể tại Điều 160 Luật Đất đai gặp nhiều trở ngại do dữ liệu chưa đầy đủ và thiếu chuyên gia định giá, dẫn đến tranh chấp. Sự chênh lệch giữa đơn giá bồi thường của các nhà đầu tư trực tiếp và dự án đầu tư công thường tạo ra xung đột, khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng. Nhiều hộ dân không phối hợp kê khai do đề nghị cung cấp đơn giá bồi thường trước khi Nhà nước ban hành thông báo thu hồi. Đại biểu đề nghị áp dụng phương án sử dụng bảng giá đất theo khoản 41, Điều 1 dự thảo nghị quyết, làm cơ sở tính tiền sử dụng đất, tiền thu đất khi nhà nước giao đất, cho thuê đất cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất tính thuế, phí liên quan đến việc sử dụng đất thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất bồi thường khi nhà nước thu hồi đất.
Ngoài ra, đại biểu Nguyễn Văn Mạnh cũng đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu về công tác hỗ trợ đời sống cho người dân khi nhà nước thu hồi đất theo Điều 108 của Luật Đất đai. Trong điều này xác định, việc xác định các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp đủ điều kiện bồi thường về đất có đất thu hồi thì tính theo % diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng và theo nhân khẩu thì gây mất rất nhiều thời gian trong thực hiện và gây ra sự so bì giữa các hộ có đất bị thu hồi, thậm chí có thể tăng nguy cơ trục lợi về chính sách, nhiều trường hợp có diện tích đất thu hồi rất nhỏ nhưng có số nhân khẩu đông thì lại được hưởng khoản tiền bồi thường, hỗ trợ lớn hơn nhiều so với để các hộ có diện tích thu hồi lớn nhưng có nhân khẩu ít.
Điều này tạo ra sự không công bằng, không đồng thuận của nhân dân và gây ảnh hưởng lớn đến tiến độ về công tác giải phóng mặt bằng. Đại biểu đề nghị, cần xem xét tính toán khoản hỗ trợ ổn định đời sống cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất theo diện tích tính theo m2, đồng thời phân cấp cho UBND cấp tỉnh quy định đơn giá hỗ trợ phù hợp với từng địa phương.
Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung: Không “ôm đồm” quá nhiều lĩnh vực trong Nghị quyết về hội nhập quốc tế

ĐB Thái Quỳnh Mai Dung phát biểu thảo luận tại Tổ
Trong phần thảo luận về Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về các cơ chế, chính sách đặc thù nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, Đại biểu Thái Quỳnh Mai Dung nêu quan điểm đồng tình với cách tiếp cận của cơ quan soạn thảo: không đưa vào Nghị quyết các chính sách cụ thể cho từng lĩnh vực như khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục, y tế hay thu hút đầu tư.
Đại biểu phân tích, nhiều nội dung đã hoặc đang được thể chế hoá thông qua các Luật và Nghị quyết Quốc hội chuẩn bị xem xét thông qua – như Luật Đầu tư (sửa đổi), các quy định hóa Nghị quyết số 57, 71, 72 của Bộ Chính trị. Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất, Nghị quyết về hội nhập nên tập trung vào vấn đề mang tính chiến lược, xuyên suốt, như: bổ sung thẩm quyền cho Chính phủ, bộ, ngành và địa phương trong triển khai đối ngoại; trao quyền cho người dân, doanh nghiệp, tạo điều kiện phát huy vai trò chủ động trong hội nhập; chính sách tạo thuận lợi về nhập, xuất cảnh cho chuyên gia, nhà đầu tư; cơ chế bổ nhiệm có thời hạn “đại sứ”, “đặc phái viên” để thúc đẩy hội nhập trong những lĩnh vực cụ thể.
Đại biểu nhấn mạnh, cách tiếp cận này giúp Nghị quyết “không bị trùng lắp” với pháp luật chuyên ngành và tạo không gian linh hoạt cho chính sách đối ngoại trong bối cảnh mới.
Đại biểu Trần Văn Tiến: Cần làm rõ sự phù hợp quy hoạch và tính khả thi tiến độ của Dự án Cảng hàng không quốc tế Gia Bình

ĐB Trần Văn Tiến phát biểu thảo luận tại Tổ
Góp ý đối với chủ trương đầu tư Dự án Cảng hàng không quốc tế Gia Bình, Đại biểu Trần Văn Tiến tập trung phân tích hồ sơ nghiên cứu tiền khả thi và chỉ ra nhiều vấn đề cần được làm rõ:
Quy hoạch còn mâu thuẫn giữa ba cấp độ
Theo đại biểu, quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2020–2030 chưa có nội dung sân bay do dự án mới phát sinh. Quy hoạch tỉnh Bắc Ninh đã điều chỉnh, tuy nhiên, theo trình bày, quy hoạch tỉnh là 245 ha, trong khi báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và quy hoạch ngành quốc gia xác định diện tích 1.884,95 ha. “Có sự mâu thuẫn rõ rệt giữa quy hoạch tỉnh, quy hoạch ngành và báo cáo tiền khả thi”, đại biểu nêu.
Khoảng cách quá gần với 8 sân bay khác
Đại biểu đặt câu hỏi về thị phần vận tải khi sân bay Gia Bình nằm trong khu vực có tới 8 sân bay khác, gần nhất chỉ 34,5 km – xa nhất khoảng 100 km. Báo cáo chỉ đề cập vai trò hỗ trợ sân bay Nội Bài, nhưng chưa đánh giá tác động tới các cảng hàng không còn lại.
Tiến độ giải phóng mặt bằng và xây dựng “khó khả thi”
Đại biểu Trần Văn Tiến dẫn chứng bài học từ Long Thành – một dự án giải phóng mặt bằng trong 2 năm vẫn chưa xong. Trong khi đó, Gia Bình dự kiến: GPMB 1.884,95 ha chỉ trong 1 năm, xây dựng khu tái định cư xong trước tháng 1/2026. “Đến nay dự án chưa được chấp thuận chủ trương đầu tư, nhưng chỉ còn hơn một năm để hoàn thành tái định cư và GPMB là điều rất khó khả thi”, đại biểu nhận định.
Nền đất yếu, yêu cầu xử lý móng khổng lồ
Toàn bộ khu vực sân bay nằm trên nền đất yếu, phải xử lý nền bằng cọc đất – xi măng trên toàn bộ diện tích gần 1.900 ha. Đại biểu cho rằng: “Tiến độ hoàn thành giai đoạn 1 vào tháng 2/2030 là rất khó đáp ứng, do khối lượng xử lý nền móng quá lớn.”
Đề nghị tách riêng khu dịch vụ – thương mại khỏi sân bay
Báo cáo dự án mô tả sân bay là “lưỡng dụng” nhưng lại tích hợp cả không gian nhà hàng, khách sạn, khu dịch vụ bên trong. Đại biểu cho rằng cần tách ra thành dự án độc lập để đảm bảo tính minh bạch trong quản lý, giảm chi phí đầu tư và phù hợp quy định pháp luật về hàng không.
Về thủ tục và cơ sở pháp lý
Đại biểu lưu ý, theo quy định, các quy hoạch liên quan phải được rà soát, điều chỉnh sau khi phê duyệt dự án. Tuy nhiên, dự thảo Nghị quyết đang “đi trước một bước” khi cho phép triển khai dự án dù quy hoạch chưa đồng bộ. “Như vậy có phải Nghị quyết đang điều chỉnh cả luật hay không?” – đại biểu đặt câu hỏi.
Bùi Hiển
Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh
baophutho.vn Chiều 19/11, Ban Kinh tế - Ngân sách, HĐND tỉnh tổ chức họp thẩm tra các dự thảo nghị quyết do Sở Ngoại vụ và Sở Nông nghiệp và Môi trường báo...
Theo chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, ngày 19/11, Quốc hội tiếp tục thảo luận ở hội trường và ở tổ về một số cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong...
Thứ Ba, ngày 18/11/2025, ngày làm việc thứ 23, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, thủ đô Hà Nội dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn.
Thứ hai, ngày 17/11/2025, ngày làm việc thứ 22, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, thủ đô Hà Nội.
Theo kế hoạch dự kiến, từ 9 giờ 50 đến 11 giờ 30, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.
baophutho.vn Ngày 17/11, Tổ 15 (gồm Đoàn ĐBQH tỉnh Phú Thọ, Đắk Lắk) đã thảo luận về Dự án Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi); dự thảo Nghị quyết của Quốc hội...
Theo chương trình Kỳ họp thứ 10, ngày 17/11, Quốc hội tiếp tục thảo luận về các dự án luật và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về những cơ chế, chính sách đặc thù để thực hiện...