{title}
{publish}
{head}
Sinh sống giữa núi rừng, người dân xã Tân Sơn chẳng mấy ai lạ con dúi, hay còn gọi là chuột núi, chuột nứa với những món ăn dân dã, mộc mạc, đượm hương vị núi rừng bổ sung dinh dưỡng cho bữa ăn đạm bạc thường nhật. Rừng đóng cửa, dúi dần vắng bóng theo những cánh rừng bạt ngàn tre nứa. Và rồi sau bao năm, giống vật thân thuộc đã “hạ sơn” theo người trong một vị thế mới: Vật nuôi thương phẩm mang lại giá trị, hiệu quả kinh tế cao...
“Trân phẩm” giữa rừng
Ba, bốn thập niên trước, khi bản làng của người Dao, người Mường Tân Sơn còn bao bọc bốn phía bởi những cánh rừng rậm rạp thâm u,đời sống gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, thì việc thi thoảng đeo dao, vác mai vào rừng kiếm dúi cải thiện bữa cơm gia đình luôn thiếu chất đạm là thú vui cũng đồng thời là trách nhiệm của mọi đàn ông trưởng thành. Rừng tre, nứa, lau lách bạt ngàn là nơi dúi thường đào hang dưới những bụi rậm, ngách đá sinh sống. Tuy nhiên, để bắt được dúi hoàn toàn không đơn giản mà cần đến rất nhiều kinh nghiệm, kỹ năng và cả chút gì đó như duyên may với thứ lộc của núi rừng này.
Ông Hà Văn Lực ở khu Lóng năm nay đã ngoài 70 tuổi chia sẻ: “Biết leo rừng, lội suối là tôi đã theo bố lên núi đào dúi. Không dễ để bắt được chúng đâu, nhìn mũm mĩm với bộ lông bóng mượt có vẻ vô hại nhưng loài gặm nhấm này có hàm răng cực khỏe, sắc bén như dao, gốc tre, rễ cây cứng đến thế chúng còn cắn đứt, nghiền nát được nói gì đến da thịt con người. Không cẩn thận, người bắt dúi rất dễ bị cắn gây thương tích, thậm chí đứt lìa cả ngón tay. Dúi rừng thường đi ăn vào ban đêm, ban ngày chúng ủi đất bít cửa hang trú ẩn. Để nhận biết được nơi dúi sinh sống dấu hiệu đầu tiên là phải phát hiện ra cây tre, cây nứa, hay lau lách héo lá, úa vàng giữa vạt rừng xanh tốt. Điều này cho thấy dưới lòng đất đang có dúi đào hang ăn rễ. Nhưng độ héo úa chỉ ở mức vừa phải, cây héo khô cũng có nghĩa dúi đã bỏ đi. Mà đất trước cửa hang cũng phải tươi, xốp mới nhiều khả năng dúi vẫn trong hang. Phát hiện ra hang có dúi đã khó, đào bắt được chúng là cả quá trình gian nan phải đổ nhiều mồ hôi, công sức, vì hang thường nằm dưới bụi tre, bụi lau dài từ 3 - 5m và có nhiều ngách, nên phải xác định được ngách nào chúng đang sống, sau đó tiến hành đào đón đầu (đào một đoạn, bỏ một đoạn) để rút ngắn khoảng cách, nhanh chóng lôi được dúi ra khỏi lòng đất...”.

Con dúi má đào trưởng thành có thể nặng tới hơn 4kg.
Ai đã từng ăn dúi dù là nướng, hấp hay om cùng củ chuối, hoa chuối rừng đều có chung nhận định: Thịt dúi phần lớn là nạc, rất săn chắc, thơm ngon. Khi ăn sẽ có vị ngọt, thớ thịt dai, giòn. Theo Đông y và kinh nghiệm dân gian, thịt dúi có tính mát, vị ngọt, giàu đạm, có công dụng bổ dưỡng khí huyết, hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường sức khỏe xương khớp, và bổ thận tráng dương. Thịt dúi còn có tác dụng cầm máu, liền xương và hỗ trợ giải rượu, phù hợp với người già, người mới ốm dậy hoặc người cần bồi bổ sức khỏe. Thế nhưng dù xứng đáng là “trân phẩm” của núi rừng nhưng thời đó không phải ai cũng mặn mà với việc luồn rừng ngược núi đào dúi, do rất mất thời gian, công sức, cả buổi nếu may mắn mới bắt được con dúi mốc nhỉnh hơn cổ chân người lớn một chút, cân nặng khoảng 0,8- 1,2 kg. Vậy nên chỉ khi nào có thời gian rảnh rỗi, tiện chuyến lên nương hay nhà có người ốm, trẻ nhỏ cần bồi bổ mà thiếu chất đạm thì đàn ông trong nhà mới lên rừng tìm dúi. Cả làng bản chưa có ai chọn đào dúi là nghề nghiệp chính bởi lẽ thịt dúi dẫu có ngon, bổ đến đâu cũng chỉ là món ăn chơi, chẳng thể thay cơm gạo, mang bán cũng đâu có ai mua...
Rừng nguyên sinh ngày càng thu hẹp, cách xa làng bản. Cùng với những cây đại thụ cả chục người ôm, rừng tre nứa bạt ngàn đi bên dưới cả ngày không thấy ánh nắng mặt trời, con dúi cũng dần vắng bóng trên đất rừng Tân Sơn. Trở thành đặc sản được người tiêu dùng ưa chuộng, giá dúi thương phẩm lên tới tiền triệu mỗi con. Với phần lớn các gia đình ở Tân Sơn, món ăn dân dã, mộc mạc, gần gũi năm xưa giờ chỉ còn trong hoài niệm, câu chuyện kể của những người lớn tuổi...
“Thú cưng” trên núi
Đồ ăn đưa đến tận miệng, điện chiếu sáng, quạt thông gió, điều hòa hai chiều, ở “phòng’ riêng, đau yếu được thăm khám, thuốc men điều trị chu đáo..., đàn dúi của anh Nguyễn Trung Nam ở khu Cường Thịnh 1, xã Tân Sơn có điều kiện sống thoải mái, được cưng chiều chẳng kém thú cưng trong những gia đình khá giả nơi phố thị.

Trong điều kiện nuôi nhốt, chăm sóc tốt, dúi mẹ trưởng thành có thể sinh sản 2- 3 lứa mỗi năm.
Quê gốc miền xuôi nhưng sinh ra và lớn lên trên đất rừng Tân Sơn, anh Nam vốn là tài xế xe khách chạy đường dài và đầu tư chuồng trại chăn nuôi lợn. Thời điểm cuối năm 2017, đầu năm 2018, lợn xuống giá, càng nuôi càng lỗ, anh chán nản bỏ chuồng trại. Trong một lần nằm xem tivi giải khuây, bất chợt thấy phóng sự giới thiệu về mô hình nuôi dúi mang lại hiệu quả kinh tế cao, anh Nam bắt đầu động tâm suy nghĩ. Nhà ngay sát chân đồi tre, luồng, anh còn lạ gì giống chuột núi này nữa. Mấy năm gần đây, nghe nói dúi trở thành của hiếm, đồ đặc sản đắt tiền trong các nhà hàng, khách sạn nhưng chưa bao giờ anh nghĩ đến và cũng chưa từng thấy ai nuôi loài gặm nhấm này. Càng tò mò tìm hiểu, anh càng thấy mê loài vật nuôi hứa hẹn triển vọng cho thu nhập cao, thị trường ổn định này. Sau lần cất công lên Sơn La tham quan mô hình nuôi dúi của người bạn quen qua mạng xã hội, anh Nam quyết định mua 25 cặp dúi giống về nuôi thử nghiệm. Sẵn chuồng lợn bỏ hoang, anh cải tạo qua là có thể bắt tay vào nuôi dúi sinh sản.
Giống vật hoang dã nhưng dúi khá dễ nuôi chỉ cần chuồng trại, đồ ăn sạch sẽ và quan trọng nhất là đảm bảo nhiệt độ luôn duy trì trong ngưỡng 20- 300C. Dúi sinh trưởng nhanh, sau một năm đã bắt đầu sinh sản, vừa để gây giống tăng đàn, vừa bán thu hồi vốn tái đầu tư mở rộng chuồng trại, đến nay, anh Nam đã có 150 cặp dúi bố mẹ. Ngoài tự nhiên, mỗi năm dúi chỉ sinh sản 1 lứa, nhưng trong điều kiện nuôi nhốt, chăm sóc tốt, dúi sinh sản mỗi năm 2- 3 lứa. Cùng với giống dúi mốc (dúi xám) bản địa có trọng lượng khi trưởng thành từ 0,8 - 2kg, anh Nam đã thử nghiệm và nuôi thành công giống dúi má đào có trọng lượng từ 1,2 - 4kg khi trưởng thành với giá thành, hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn. Để đảm bảo nguồn thức ăn cho dúi, anh đã thuê lại hơn một mẫu đất rồi thuê người trồng, chăm sóc cỏ voi, mía.
Anh Nguyễn Trung Nam chia sẻ: “Trung bình, chi phí cho một con dúi hết tất cả 700 đồng mỗi ngày. Dúi giống hiện có giá 1,2 – 1,4 triệu đồng mỗi cặp. Dúi thương phẩm khoảng 500 – 550 nghìn đồng/kg. Mỗi năm, nhà tôi bán khoảng 300 cặp dúi giống và 50- 70 kg dúi thương phẩm, trừ chi phí cũng thu lãi hơn 300 triệu đồng. Thị trường tiêu thụ rộng mở, khách gọi đặt hàng khắp các vùng miền từ Sơn La, Điện Biên đến Hà Nội và các tỉnh miền Trung, miền Nam. Dúi nuôi được đến đâu là có người đặt mua đến đó, gia đình tôi đang tính toán để mở rộng quy mô chuồng trại, tăng số lượng dúi nuôi...”.
Hiệu quả hơn hẳn các vật nuôi truyền thống, rõ ràng nuôi dúi đang là hướng mở triển vọng để các hộ dân phát triển kinh tế gia đình, nhanh chóng vươn lên làm giàu bền vững. Ông Nguyễn Đức Vinh, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Tân Sơn khẳng định: “Một trong những biện pháp bảo vệ, phát triển rừng hiệu quả, bền vững nhất là giảm áp lực lên tài nguyên rừng. Cùng với tuyên truyền, vận động người dân chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về bảo vệ tài nguyên rừng thì hỗ trợ, tạo điều kiện để bà con, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao phát triển kinh tế, thoát khỏi đói nghèo sẽ có tác động tích cực đến việc ngăn ngừa các hành vi xâm hại rừng trái phép.
Mô hình nuôi dúi của gia đình anh Nguyễn Trung Nam đã bước đầu khẳng định hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn các hoạt động sản xuất nông nghiệp truyền thống. Cùng với việc hướng dẫn, giúp đỡ gia đình thực hiện các thủ tục đăng ký nuôi nhốt động vật hoang dã theo quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi cũng thường xuyên đến kiểm tra, thăm nắm, động viên, nhắc nhở gia đình thực hiện các biện pháp quản lý, đảm bảo vệ sinh, ngăn ngừa dịch bệnh. Nếu có thể nhân rộng, đây sẽ là mô hình kinh tế phù hợp, hiệu quả đối với đồng bào vùng cao...”.
Con dúi đã “hạ sơn” và đang mở ra hướng đi triển vọng giúp bà con vùng cao vươn lên làm giàu, sưởi ấm bản làng trong niềm vui sung túc, thanh bình...
Cẩm Ninh
Suốt 5 năm qua, ở xã A Dơi (tỉnh Quảng Trị), có một lớp học xóa mù chữ đặc biệt do những người lính biên phòng và cán bộ phụ nữ tổ chức. Trong đó, Đại úy Hồ Văn Hữu, Đội trưởng...
baophutho.vn Một buổi sớm thu, tôi trở lại vùng đất Mường Vang theo những lời hẹn cũ. Con đường lên xứ Chiềng Vang xã Tân Lập, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình...
baophutho.vn Từ những đồi cam xơ xác, vùng cam Cao Phong đang khoác lên mình màu xanh mới - màu của sự hồi sinh và hy vọng. Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của...
baophutho.vn Trời còn mờ sáng, từ khắp các nẻo đường trong khu 7, xã Lai Đồng người dân đã đổ về dốc Đồi Ngồng. Người cầm cuốc, cầm xẻng, người cầm bừa cào,...
baophutho.vn Từ biểu tượng của sự giàu có, những vườn cam Cao Phong sau một thời gian đã rơi vào một cuộc khủng hoảng. Những triền đồi trơ trọi gốc cây, giá...
baophutho.vn Có một thời, đi qua Cao Phong là đi giữa một miền hương ngan ngát và sắc vàng no ấm. Vùng đất ấy, từ một nông trường nhỏ bé nép mình ven Quốc...
baophutho.vn Trời đã vào thu, nhưng trên cung đường khúc khủy dốc, nắng vẫn như đổ lửa lên mặt đường nhựa. Giữa dòng xe cộ ngược xuôi. Trong ca trực của...