Cập nhật:  GMT+7

Nỗi lòng con gái với “Hai người cha” của Thúy Tình

(Nhân đọc tập thơ “Hai người cha” của Thúy Tình, NXB HNV 2017)

Thúy Tình - Hội viên Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật (VH VHNT) tỉnh Phú Thọ. Chị quê ở xã Tam Đảo, nguyên là Hiệu trưởng Trường Tiểu học Minh Quang 2. Nay về nghỉ hưu ở khu hành chính số 4, Bảo Linh, phường Vĩnh Yên. Chị là con liệt sỹ chống Mỹ và là cháu nội của Mẹ Việt Nam Anh hùng (VNAH). Tập thơ “Hai người cha” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành tháng 7/2017. Đây là tập thơ thứ 2 trong hành trình thơ của Thúy Tình.

Nỗi lòng con gái với “Hai người cha” của Thúy Tình

Chân dung nhà thơ Thúy Tình

Tập thơ đầu tay của Thúy Tình mang tên “Hương quỳnh” - NXB Hội Nhà văn ấn hành năm 2006. Sau 11 năm trăn trở và đau đáu nỗi niềm thương cha nhớ mẹ, chị như vắt hết tâm can để viết những câu thơ chân thành từ sâu thẳm trái tim mình: “Ngày xông pha dặm đường trường/ Đêm về làm nhện ngậm buồn nhả tơ/Dệt tình đời trên trang thơ/Mặc thời gian cứ xóa mờ dấu chân” (Niềm tin). Chị biết rằng, khi con người tuổi càng cao thì tâm trí càng suy giảm; ngày tháng trôi đi, ký ức quên đi ít nhiều. Điều đó càng thôi thúc chị không rời cây bút, ghi lại cảm xúc của mình, tri ân công ơn cha mẹ, công ơn những anh hùng, liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc.

Tập thơ “Hai người cha” gồm 45 bài. Trong 45 bài ấy, phần nhiều là thơ viết về tình cảm cha mẹ, viết cho các con và một số bài về quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của chị. Nhưng tôi tâm đắc nhất những bài thơ viết về nỗi niềm của chị đối với cha mẹ. Âu cũng là những câu thơ gan ruột của chị tri ân cha mẹ, tri ân các anh hùng liệt sỹ.

Thúy Tình mồ côi cha từ lúc còn trẻ thơ, nên phải chịu nỗi thiệt thòi thiếu thốn quá lớn về tình thương của cha. Để đến khi lớn lên đi tìm mộ cha, chị gặp mộ người thầy giáo dạy mình năm nào nay nằm lại nơi chiến trường xa xôi. Chị đã òa khóc giữa núi rừng Trường Sơn.

Bài thơ “Hai người cha” lấy tên cho Tập thơ, chị viết với tâm thế tự nhiên, câu từ tự nhiên như cảm xúc chân thật của mình như thế: “Thầy xưa chủ nhiệm 5A/ Gấp trang giáo án xông pha chiến trường”, và Tìm mộ cha gặp thầy tôi/ cha sinh/ cha dưỡng/ Hai người cha yêu!”.

Trước đó, câu thơ bất ngờ ngắt nhịp, chậm lại, bàng hoàng, nghẹn ngào như nuốt từng chữ vào trí nhớ: “Bên vàn cao su biếc xanh/ Ngỡ ngàng tôi gặp thầy mình nằm đây/ Họ tên.../ Quê quán.../ tháng ngày.../ Hy sinh ở cánh rừng này điểm cao/ Choàng ôm bia đá nghẹn ngào...”.

Thật cảm động, nỗi buồn xen lẫn nỗi buồn chắt ra từ tấm lòng kính yêu người thầy, cũng là người cha thứ hai của chị. Hai người liệt sỹ vì dân vì nước. Viết về cha, chị chỉ nghe mẹ kể lại, vì chị sinh ra chưa rõ mặt cha thì cha đã ra mặt trận và biền biệt ra đi mãi mãi: “Nhớ lời mẹ kể ngày xưa ấy/ Tiễn cha ngõ xóm nhớ nôn nao/ Giơ bàn tay nhỏ con vẫy vẫy/ Cha níu hôn con lệ mẹ trào.” (Đi tìm mộ cha).

Thế rồi chị tâm sự: “ Đất nước chiến tranh cha đi mãi không về/ Dòng sữa mẹ chắt chiu trong gian khó/ em lớn dần theo cây lúa đồng quê.”( Niềm riêng). Những năm tháng đánh Mỹ, cả dân tộc ta tất cả hướng ra tiền tuyến, hàng vạn thanh niên gác bút trên các giảng đường đại học, gác lại trang giáo án, tạm biệt mái trường thân yêu lên đường đánh giặc.

Với khẩu hiệu “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”; “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”; “Vì Độc lập, Tự do của Tổ quốc”. Có lẽ chúng ta cũng còn nhớ câu thơ nổi tiếng hồi bấy giờ của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Câu thơ như tiếng kèn xung trận, như niềm kiêu hãnh, tự hào của thế hệ thanh niên một thời đánh giặc.

Đến một ngày, người cha trăm nhớ, ngàn thương của chị đã hy sinh, cái tin ấy như sét đánh bên tai chị, bàng hoàng, sờ sững xót thương: “Tin sét đánh tím chiều thu tháng Tám/ Buổi học chưa tan em vội vã về nhà/ Thấy mẹ khóc cả bao người đang khóc/Trên bàn thờ hương nghi ngút cùng hoa... Em bàng hoàng đón phận mồ côi/ Chân bước hững hờ lòng em chơi vơi...”.

Chơi vơi nỗi lòng, chơi vơi nỗi người, chơi vơi không biết vịn vào ai. Nỗi chơi vơi ấy chị nói thay cho bao người con, bao người vợ liệt sỹ phải chịu cảnh mất mát này. Nhân ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, xin chia sẻ sâu sắc cùng tác giả và những người mẹ, người vợ, người con liệt sỹ. Đặc biệt, với trường hợp của tác giả, đến giờ vẫn chưa tìm thấy mộ cha, mặc dù đã bao năm đi tìm kiếm.

Niềm đau đáu đó chị giấu trong câu thơ: “Thắp nén hương thơm dòng lệ đẫm/ Thầm gọi tên cha cả vạn lần/ Tên cha có khắc trên mộ chí/ Hay mãi là chiến sỹ vô danh?” (Đi tìm mộ cha) và: “Hồn thiêng phảng phất cánh rừng/ Hương trầm bảng lảng nỗi lòng chơi vơi/ Ngàn năm bia trắng ngậm ngùi/ Gió mây ơi! mách giùm nơi cha nằm!” (Chiều nghĩa trang).

Chị tự hào có người cha đã hiến trọn cuộc đời cho Tổ quốc. Dù xa cách chân trời, nhưng chị luôn nghĩ có tình cha luôn ấm áp bên cạnh mình: “Giữa thời đất nước khó khăn/ mẹ may tấm áo vỏ chăn con dùng/ Bao ngày gió bấc mưa dông/ Có tình cha mãi ấm lòng con đây” (Tấm áo vỏ chăn).

Viết về người mẹ với số bài còn khiêm tốn, nhưng Thúy Tình đã thầm khóc nhiều lần: “Mẹ là mẹ, mẹ là cha/Mẹ là nắng hạ, mẹ là mưa dông/ Một vai hai gánh lưng còng/ Đảm đang chung thủy thay chồng hy sinh...Quê hương mẹ bắc nhịp cầu/ Giúp con vượt mọi nông sâu dòng đời/ Mẹ cho con cả ngọt bùi/ Như thân ong mật dâng đời...mẹ ơi!” (Nhớ mẹ).

Đến đây, tôi nhớ hai câu thơ của Đinh Trọng Thuật nói về nỗi vất vả của mẹ mà nao lòng: “Mẹ gom nhặt ngọn rau thưa/ Quẩy ra chợ, chợ đã trưa mất rồi/...Chợ tan rau ế héo nhàu/ Kéo ngang vạt áo mẹ lau nỗi buồn”.

Người mẹ nào của chúng ta thời chiến tranh cũng đều lận đận vất vả, đều vì chồng vì con mà lam lũ gánh chịu gian khó ở quê cho chồng con ra mặt trận. Để rồi một ngày mẹ đi xa, Thúy Tình lại bơ vơ mồ côi cả cha lẫn mẹ, chị một mình nuôi các em khôn lớn; “Nỗi đau, đau đến vô bờ/ Chập chờn giấc ngủ hững hờ bước đi/ Mẹ ơi, vội vã mà chi/ Con còn vụng dại mẹ đi sao đành...hành trình muôn dặm thẳng cong/ lấy ai dìu dắt đoạn vòng lối ngang/ Nỗi đau, đau đến ngỡ ngàng/ Mẹ đi để nỗi bàng hoàng trong con.” (Bàng hoàng).

Nỗi lòng con gái với “Hai người cha” của Thúy Tình

Nỗi lòng con gái với “Hai người cha” của Thúy Tình

Bìa tập thơ “Hai người cha” của Thúy Tình

Sự hẫng hụt ấy là nỗi đau mất mát lớn lao của chị:“ Đường đời bao nỗi chênh vênh/ Buồn vui nay biết ngọn ngành cùng ai” (Bàng hoàng). Để mỗi khi trở về thăm quê, thắp nén hương tưởng nhớ cha mẹ, tác giả tự nhủ mình: “Hương trầm khói tỏa lâm li/ Công ơn trời bể lấy gì trả đây?” (Nhớ mẹ). Và lòng chị luôn nhớ về quê hương yêu dấu “Chân đi hồn ngoái lại/ Ngỡ mắt ai níu lòng” (Đại Lải và em).

Có thể nói, tập thơ “Hai người cha” là một bước tiến trong thơ Thúy Tình. Chị không viết nhiều, chưa đề cập đến những vấn đề nóng bỏng của xã hội hiện đại. Chị tập trung vào tình cảm tri ân cha mẹ, tri ân liệt sỹ. Để có thành công ấy, phải chắt ra từ gan ruột, từ thực tế đời sống và qua trải nghiệm quá nửa cuộc đời của chị.

Gấp tập thơ lại, câu thơ trong bài thơ cuối sách của tác giả còn ám ảnh tôi: “Đêm về làm nhện ngậm buồn nhả tơ”. Hy vọng với sự chân thật ấy, chị tiếp tục có những tác phẩm mới dâng hiến cho bạn đọc.

Vĩnh Yên ngày 8/10/2025

Nguyễn Ngọc Tung


Nguyễn Ngọc Tung

 {name} - {time}
{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Xem thêm

Tiếng rơi xót gió mặt hồ

Tiếng rơi xót gió mặt hồ
2025-10-01 07:54:00

baophutho.vn Đó là một câu thơ trích ra từ bài thơ “Vỡ lòng” trong tập thơ “Dần sáng” (NXB Hội Nhà văn năm 2025) của Nhà thơ trẻ - Thượng úy Nguyễn Thị Kim...

Tin liên quan

Gợi ý

Tin địa phương

Xem thêm Phường Việt Trì

Thời tiết

POWERED BY
Việt Long