Cập nhật:  GMT+7

Thơ Trần Nhương hóm hỉnh và sâu sắc với quê hương Trung du

Nhà thơ - Họa sĩ Trần Nhương sinh năm 1942 tại xã Thạch Sơn, huyện Lâm Thao (nay là xã Lâm Thao), tỉnh Phú Thọ, hiện sinh sống tại Hà Nội. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội VHNTTS Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, Hội viên Hội Mỹ thuật Hà Nội. Ông đã cho ra đời hàng chục tâp thơ, truuyện ngắn, tiểu thuyết và đoạt nhiều giải thưởng VHNT của trung ương và ngành. Năm 2024, Trần Nhương ra mắt tập thơ “Gió thu chạm ngõ” (NXB Hội Nhà văn) – đây là tập thơ thứ 7, và tổ chức triển lãm tranh cá nhân “Thi hứng 5”. Các tác phảm của Trần Nhương dù thơ hay họa đều cảm thức sâu sắc với miền quê trung du tỉnh Phú Thọ

Thơ Trần Nhương hóm hỉnh và sâu sắc với quê hương Trung du

Nhà thơ Trần Nhương (bên phải) tặng tập thơ “Gió thu vừa chạm ngõ” cho tác giả Ngô Đức Hành.

Khi đọc thơ Trần Nhương tôi nhớ câu nói này của một nhà thơ đã quá cố “Không ai bứng được tôi ra khỏi cố hương”, quê gốc Phú Thọ. Quả vậy, ký ức làng quê, rừng cọ, đồi chè nằm trong tâm hồn Trần Nhương, theo ông suốt dặm dài hành quân, cho đến lúc lập nghiệp ở Hà Nội “Lâu lâu mới ở quê lâu / Thạch Sơn, làng Sỏi ngược tàu ngày xưa”, (Về làng). Làng Sỏi thuộc xã Thạch Sơn là cố thổ. Biết bao trăn trở, suy tư với quê, từ diện mạo đời sống đến diện mạo văn hóa, tinh thần. Biết bao thứ mới nhưng cũ đi, biết bao điều đã mất sau bóng dáng hào nhoáng, tập tễnh làm “đô thị” của làng quê. Biết bao “dấu lặng” hiện hữu.

...

Ngày xưa khoai củ độn cơm

Mà sao ngon thế, còn hơn tiệc tùng

Ngày xưa thư thái ung dung

Lời chào câu hỏi vui cùng ngõ quê

(Về làng)

Quê hương, nơi có “vùng ký ức”. Bóng dáng quê hương hiện lên trong nhiều thi phẩm của Trần Nhương. Ngoài “Về làng” là hàng loạt các bài thơ khác: “Bâng khuâng quán núi”, “Người đàn bà cuốc ruộng”, “Lời người ở núi”, “Ga trung du”, “Núi và sông”, “Đứa con của núi”, “Ngơ ngác trung du”, “Mảnh áo của cha”...Bài thơ nào cũng có thanh âm của những dấu hỏi.

Trần Nhương là người sống ân tình. Tôi biết ông từng là một người lính lái xe trên đường Trường Sơn huyền thoại. Năm 1965, khi đang là giáo viên, ông nhập ngũ lên đường vào tiền tuyến. Đây cũng là giai đoạn đế quốc Mỹ dính sâu vào cuộc chiến, cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam bước vào giai đoạn ác liệt. Ở miền Bắc, chiến tranh phá hoại bằng không quân lần thứ nhất của đế quốc Mỹ bắt đầu. Phải nói thế để thấy, những người lính như Trần Nhương vào trận với tất cả khát khao được bảo vệ đất nước.

Năm 1993 ông rời quân ngũ. 28 năm đời lính, trong đó có 11 năm thuộc biên chế lực lượng vận tải quân sự, hầu hết các tuyến đường ông đều đi qua. Đó là những năm tháng hào hùng của đất nước "tất cả hành quân, tất cả cùng ra trận".

"Ở đâu có lính lái xe, có lính hậu cần là chúng tôi đến. Đó là những năm tuổi xuân của mình trong sáng nhất, tươi đẹp nhất, khỏe mạnh nhất. Chúng tôi đi cùng nhau, ôm nhau ngủ hầm, thậm chí có nhiều đêm thức trắng"- Trần Nhương luôn trẻ ra khi ông nhắc lại những năm tháng đầy kỷ niệm của tuổi trẻ khi trong cabin xe giữa rừng Trường Sơn. "Nước chè một bát trao anh/ Đã xanh màu nước lại xanh mắt nhìn"; "Bâng khuâng anh lái xe đi/ Đầy buồng lái cái hương chè ngát xanh" (Chè rừng).

Đó là thời điểm trên đường Trường Sơn huyền thoại (sau này mang tên đường Hồ Chí Minh) không chỉ có những người lính mà còn có hàng vạn thanh niên xung phong, chủ yếu là nữ. Những cuộc gặp, dẫu thoáng qua luôn gieo vào lòng người lính trẻ Trần Nhương biết bao cảm xúc.

Trần Nhương kể về những năm tháng ấy: "Chúng tôi là những người lính của vận tải quân sự chi viện cho chiến trường Lào từ năm 1965 cho đến khi nước Lào hoàn toàn giải phóng. Tôi không bám trụ ở vùng chiến trường này, nhưng hay đi công tác cùng anh em lái xe và những đồng chí làm nhiệm vụ ở đây. Có lần đến Noọng Hét, tất cả các đỉnh núi đều là vôi trắng, tức là bom đánh đến nỗi nung thành vôi”.

Hang Noọng Hét là nơi nhà thơ Phạm Tiến Duật – đồng hương Phú Thọ của ông đã viết bài thơ "Tiếng cười trong hang đá". Trần Nhương kể lại rằng, những đêm đi trên đèo đất, lúc ấy đường bằng đất chứ không trải nhựa như bây giờ, ông có cảm giác khi bánh xe lăn thì lớp bụi dày khoảng 30 - 40cm cứ kêu "bụp", "bụp" như người ta giã bột. “Trên đầu thì máy bay địch lượn. Vượt những trọng điểm như thế rất kinh khủng”, ký ức những năm tháng ấy luôn theo ông.

Sau này trên đường hành quân, nhiều địa danh là trọng điểm đánh phá của đế quốc Mỹ đã vào thơ ông. Có thể kể đến "Qua cầu phao" viết về Phà Ghép (Thanh Hóa); "Đèo Khỉ" viết khi ông tham gia Chiến dịch Đường 9 - Nam Lào; "Đường ra trận" viết tặng Trung đội nữ lái xe Trường Sơn mang tên Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Hạnh; "Tiễn chân em dưới vòm trời Vĩnh Linh".

"Tôi không quên một trận bom kinh hoàng ở chỗ đèo La Trọng (Quảng Bình cũ). Đêm hôm ấy, anh em đưa tôi về. Trên xe chở một tử sĩ bọc trong túi nilon. Tôi đứng trên thùng xe. Đèo dốc nghiêng ngả, anh chiến sĩ hy sinh ấy cứ lăn sang bên nọ, bên kia. Tôi lại phải nhảy từ bên này sang bên kia để không động vào anh. Những ngày tháng ấy cho tôi một vốn sống không thể nào có được lần nữa”, Trần Nhương chia sẻ.

Trần Nhương là người đã đi qua suốt chiều dài cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, kể cả sau này cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (dù lúc ấy ông đã ở cương vị khác trong quân ngũ), đã bước qua "lằn ranh" sống chết nên với Trần Nhương, tình cảm đồng chí thiêng liêng nhất.

“Có lẽ nào em đã đi xa / Ngày toàn thắng biết bao người đều hỏi / Con đường đỏ cháy lên như tiếng gọi / Em ở đâu? Ngơ ngẩn rừng già”, (Có lẽ nào em đã đi xa). Trần Nhương cũng có những câu thơ ám ảnh về còn/mất.

Đọc thơ Trần Nhương nhận ra “không gian” lưu giữ ký ức của ông, thấy quá khứ, hiện tại và tương tai trong một “dòng chảy” cảm xúc. Từ cảm xúc của bản thể nhà sáng tạo, vang vọng, lay thức suy nghĩ, tình cảm của người đọc.

Trần Nhương đã có 25 đầu sách, trong đó có 4 tiểu thuyết, 2 tập truyện ngắn, 2 tập truyện, 1 chân dung văn học...; 10 tâp thơ và trường ca. Tính về tỷ lệ, rõ ràng, thơ vẫn chiếm phần nổi trội trong gia tài văn học của Trần Nhương. Gọi ông trước hết là nhà thơ, không ai “cãi” được.

Thơ Trần Nhương hóm hỉnh và sâu sắc với quê hương Trung du

Bìa tập thơ “Gió thu vừa chạm ngõ” của Trần Nhương

Trong sáng tác, Trần Nhương còn sử dụng nhiều bút danh khác. Trần Nhương cho biết, năm 1979, ông theo học khoa Viết văn Nguyễn Du khoá 1 (Trường Đại học Văn hóa). Tốt nghiệp, ông về Nhà xuất bản Quân đội công tác, năm 1987 là trưởng phòng Biên tập sách văn nghệ. Năm 1993, ông chuyển ngành sang Hội Nhà văn Việt Nam, đến năm 2008 nghỉ hưu, có thời gian dài ông cộng tác với báo “Người cao tuổi”, tư cách là một biên tập viên.

Ở một “sự nghiệp” khác là hội họa, đến nay Trần Nhương đã tổ chức 5 cuộc triển lãm cá nhân. Ngồi bên bàn phím hay cầm cọ, đối với Trần Nhương là cách để tri ân cuộc đời. Ông làm việc quên tuổi. Năm 2024, đối với ông là một năm đầy sự kiện, vừa ra mắt “Gió thu chạm ngõ”, (tập thơ), vừa tổ chức triển lãm tranh cá nhân “Thi hứng 5” tại Nhà triển lãm số 16 Ngô Quyền, Hà Nội.

Ở tuổi 85 nhưng Trần Nhương vẫn “tráng niên”. Đọc thơ Trần Nhương nhận ra “chân dung” tác giả, ít nhất về tâm hồn. Từ lâu “Trần Ham Vui” đã trở thành tên riêng, danh xưng trong tâm thức bạn bè yêu mến, niềm tự hào riêng có. Nhà thơ Dương Kỳ Anh lúc sinh thời gọi ông là “Trần Đam Mê”. Đúng là Trần Nhương đam mê sống, đam mê chơi, đam mê sáng tạo.

Ừ thì hạ, ừ thì đông / Lời yêu cứ bện như vòng tay ôm / Ừ thì sớm, ừ thì hôm / Trời ơi, quả thị vẫn thơm bốn mùa”, (Ừ thì). Thơ Trần Nhưng hóm và sâu sắc.

Ngô Đức Hành


Ngô Đức Hành

 {name} - {time}
{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Xem thêm

Tiếng rơi xót gió mặt hồ

Tiếng rơi xót gió mặt hồ
2025-10-01 07:54:00

baophutho.vn Đó là một câu thơ trích ra từ bài thơ “Vỡ lòng” trong tập thơ “Dần sáng” (NXB Hội Nhà văn năm 2025) của Nhà thơ trẻ - Thượng úy Nguyễn Thị Kim...

Tin liên quan

Gợi ý

Tin địa phương

Xem thêm Phường Việt Trì

Thời tiết

POWERED BY
Việt Long